Tên di sản : Nghè - Đình Phú Khê
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : 281 QĐ/BT
Giới thiệu
Đình Phú Khê dựng theo hướng Tây Nam trên một khu đất rộng bằng phẳng phía Tây xóm đất Bụt cũ. Phía Bắc và phía Tây giáp cánh đồng Mách, đồng Hẹ Trà – trải rộng địa phận Hoằng kim, Hoằng Phương và Hoằng Giang. Phía Nam giáp trục đường liên hương và cánh đồng Bộc trải dài đến địa phận xã Hoằng Qùy, Hoằng Hợp và sông Mã. Còn phía Đông, trước đây cũng là đồng đất Bụt, nay là thổ cư thuộc đội 3 Hoằng Phú, về địa thế của Đình.
Về mặt bằng kiến trúc: Từ cửa Nghinh Môn (một kiến trúc chồng điếm hai tầng – rộng 3,5m; dài 10,5m) đi vào khoảng 6m là bức bình phong, rồi đến sân đình (rộng 28m, dài 35m). Tiếp theo là 5 gian nhà Tiền đình (dài 21,5m; rộng 13m). Giáp mái với tiền đình là nhà chính tâm (gồm 5 gian, nhỏ hẹp hơn tiền đình) hợp thành kiểu chữ “Nhị” (dài 13m; rộng 10,5m). Đây là nơi đặt hương án và các đồ thất sự, tế khi thờ thần. Sau cũng là 2 gian nhà Hậu cung dài 6m; rộng 3,6m, bố cục theo chiều dọc, hợp với nhà chính theo kiểu chữ “Đinh” hay còn gọi là “Chuôi vồ” là nơi đặt Long ngai – bài vị hai vị thần. Ngoài ra, hai bên nhà Tiền đình còn có hai dãy nhà (mỗi dãy 5 gian) gọi là “xã văn xã võ”, hay “Tả vua – Hữu vu”. Liền mái với gian giữa Tiền đình còn có nhà Bồi bái – 4 mái, hình vuông. Chiều dài mỗi cạnh bằng chiều rộng của gian giữa nhà Tiền đình. Phía Nam đình là hồ sen. Ngoài hồ sen là cây đa – giếng nước của đình.
Về quy mô, cấu trúc, đình Phú Khê được xếp hạng thứ nhất của tỉnh và cũng là “Mô tuýp” điển hình của đình và đền gắn liền với nhau ở Thanh Hóa thế kỉ XVIII.
Nghệ thuật kiến trúc: Có thể khẳng định rằng đình Phú Khê là một công trình kiến trúc nghệ thuật rất độc đáo, rất tiêu biểu. Một người ôm không xuể, đá tảng kê chân cột có kích thước 0,70m x 0,70m, bao gồm 6 hàng cột, mỗi hàng 6 cột, trong đó bao gồm cột cái, cột quân và cột hiên, tất thảy có 6 vì kèo liên kết với nhau bằng các đường xà thượng, xà hạ. Kết cấu vì kèo theo lối giá chiêng, kẻ chuyền. Nóc đình trang trí “Lưỡng long chầu nhật”. Hai bên đỉnh hồi nhà có đặt hai con “sấu” đối diện với nhau. Đặc biệt, các bộ phận cấu thành vì kèo đều được chạm trổ tinh xảo, đề tài trang trí là Long – Ly – Quy – Phượng và hoa lá cành cách điệu. Phong cách thể hiện khoáng đạt, bố cục chặt chẽ. Nội dung đề tài trang trí giữa các vì kèo không rập theo một khuôn mẫu nhất định, nhưng lại bổ sung cho nhau theo kiểu cài răng lược.
Với nghệ thuật bố cục, đề tài trang trí như trên đã tăng thêm sự lộng lẫy của kiến trúc. Nhìn vào những mảng chạm khắc ở các vì kèo, ta có cảm nhận như đứng trước 1 bức tranh thiên nhiên hùng tráng rực rỡ và rất sống động. Song cũng rất uy nghiêm ở chốn đình làng. Điều đó thể hiện tài năng sáng tạo nghệ thuật của người thợ Phú Khê. Ca ngợi tài năng sáng tạo nghệ thuật của người Phú Khê, đến nay trong dân gian vẫn còn lưu truyền câu chuyện và 6 hiệp thợ mộc xây dựng ngôi đình.
Mặc dù quy mô kiến trúc của đình Phú Khê không còn nguyên vẹn như xưa. Song với sự tồn tại của các công trình kiến trúc hiện nay, cùng những di vật có liên quan cũng đã đủ cơ sở để khẳng định rằng Đình Phú Khê là một công trình kiến trúc nghệ thuật có một không hai ở Thanh Hóa trong đầu thế kỉ XVIII. Nó xứng đáng là ngôi đình “Tiếng nức cõi Thanh – danh lừng đất Phú” như nhà bác học Lê Quý Đôn đã đánh giá từ thời bấy giờ.
Những hiện vật trong di tích:
Cuốn “Thần phủ Phú Khê” – chữ Nôm, do Hàn lâm viện Đông Các học sĩ Nguyễn Bính biên soạn niên hiệu Hoàng triều Vĩnh Hựu (1735) thời vua Lê Ý Tông (1735 – 1740).
Cuốn “Bản xã Mục lục” – chữ Nôm, do Bảng nhãn Lê Quý Đôn phụng soạn ngày 13/1, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 31 (1771) thời vua Lê Hiến Tông (1740 – 1786).
Hai thềm rồng bằng đá thời Lê.
Hai bức đại tự: “Hiếu nghĩa khả gia” (có nghĩa là Hiếu nghĩa thực tốt lành) – sơn son thếp vàng và chạm trổ công phu.
1 đại tự: “Nhị khí lương năng” (có nghĩa là hai tài năng tốt lành khí phách).
3 câu đối Nôm của Lê Quý Đôn khắc trên gỗ.
Câu nói khắc ở cột đá.
2 kiệu bát cống, mũ đại thờ.
2 bộ long ngai – bài vị của hai vị thần hoàng.
Ngoài ra còn rất nhiều đồ thờ khác như: bát biểu, lư hương đồng, ngựa hồng, ngựa bạch bằng gỗ,…